NGUỒN GỐC CỦA ĐÔNG TRÙNG HẠ THẢO

0
139
  1. Đông trùng hạ thảo (Chinese caterpillar fungus), còn gọi là trùng thảo, hạ
    thảo đông trùng hay đông trùng thảo, là một loại đông dược quý có bản chất là
    dạng ký sinh của loài nấm Cordyceps sinensic (thuộc nhóm Ascomycetes) trên cơ
    thể sâu Hepialus fabricius. Phần dược tính của đông trủng hạ thảo đã được
    chứng minh là do các chất chiết xuất từ nấm Cordyceps sinensic.
    Tên gọi “đông trùng hạ thảo” là xuất phát từ quan sát thực tế khi thấy vào
    mùa hè nấm Cordyceps sinensic mọc chồi từ đầu con sâu nhô lên khỏi mặt đất.
    Vào mùa đông thì nhìn cặp cá thể này giống con sâu (côn trùng), còn đến mùa hè
    thì chúng trông giống một loài thực vật (thảo mộc) hơn.
    Riêng tên “Đông trùng hạ thảo” được ghi chép là vị thuốc xuất hiện lần đầu
    tiên trong cuốn “Bản thảo cương mục” vào đời nhà Minh của danh y Lý thời
    Trân (năm 1575), Đông Trùng Hạ Thảo được xếp ngang với nhân sâm về công
    năng chữa bệnh – thuộc vào loại toàn diện nhất.

  1. Nguồn gốc hình thành:
    Đông trùng hạ thảo là hiện tượng loài sâu thuộc chi Hepialus trong tổng Họ
    Lepidoptera (Cánh bướm) bị kí sinh bởi một loài nấm túi có tên khoa học là
    Cordyceps sinensis (Berk.) thuộc tổng Họ Ascomycetes (Nang Khuẩn). Thường
    gặp nhất là sâu non của loài Hepialus Fabricius hoặc Hepialus Armoricanus.
    Ngoài ra còn 40 loài khác thuộc chi Hepialus cũng có thể bị Cordyceps sinensis
    ký sinh. Các loài nấm này phân bố rộng ở châu Á và châu Úc với trung tâm đa
    dạng là vùng Đông Á, đó là các vùng cao nguyên cao hơn mặt biển từ 4000 đến
    5000m như: Tây Tạng, Tứ Xuyên, Thanh Hi, Cam Túc, Vân Nam…
  2. Chu trình sống của Cordyceps:
    Cordyceps thuộc họ nấm, nó ký sinh trên thân của côn trùng. Mùa
    Đông, nấm ký sinh vào côn trùng, phát triển thành hệ sợi nấm (đây là giai
    đoạn vô tính), sử dụng nguồn dinh dưỡng từ cơ thể côn trùng và giết chết
    côn trùng.-5-
    Mùa hạ, sợi nấm vô tính chuyển sang giai đoạn hữu tính, hình thành cây
    nấm là cơ quan chứa bào tử vô tính và nhú lên khỏi mặt đất nhưng gốc vẫn
    dính liền vào thân sâu

Mô tả
Chi nấm Cordyceps có tới hơn 600 loài khác nhau. Tuy nhiên cho đến nay
người ta mới chỉ nghiên cứu nhiều nhất được về 2 loài Cordyceps sinensis
(Berk.) Sacc. và Cordyceps militaris (L. ex Fr.) Link.
Đông trùng hạ thảo khi còn sống, người ta có thể trông rõ hình con sâu, với
đuôi là một cành nhỏ, mọc lá. Khi sấy khô, nó có mùi tanh như cá, đốt lên có
mùi thơm. Phần “lá” hình dạng giống ngón tay, dài khoảng 4 – 11cm do sợi nấm
mọc dính liền vào đầu sâu non mà thành. Đầu sâu non giống như con tằm, dài
chừng 3-5 cm, đường kính khoảng 0,3 – 0,8 cm. Bên ngoài có màu vàng sẫm
hoặc nâu vàng với khoảng 20-30 vằn khía, vằn khía ở gần đầu nhỏ hơn. Phần đầu
có màu nâu đỏ, đuôi giống như đuôi con tằm, có tất cả 8 cặp chân, nhưng 4 đôi ở
giữa là rõ nhất. Chất đệm nấm hình que cong mọc ra từ mình sâu non, dài hơn
sâu non một chút. Sâu non dễ bẻ gãy, ruột bên trong căng đầy, màu trắng hơi
vàng; chất đệm nấm khá dai và bên trong ruột hơi rỗng, có màu trắng ngà.
Thành phần
Các phân tích hoá học cho thấy trong sinh khối (biomass) của đông trùng hạ
thảo có 17 đến 19 loại acid amin khác nhau, có D-mannitol, có lipid, có nhiều
nguyên tố vi lượng (Na, K, Ca, Mg, Al, Mn, Cu, Zn, Bo, Fe… trong đó cao nhất
là phospho). Quan trọng hơn là trong sinh khối đông trùng hạ thảo có nhiều chất -6-
hoạt động sinh học mà các nhà khoa học đang khám phá dần, nhờ tiến bộ của
ngành hoá học các hợp chất tự nhiên.
Nhiều hoạt chất trong đông trùng hạ thảo có giá trị dược liệu thần kỳ. Trong
đó phải kể đến là cordiceptic acid, cordycepin, adenosine, hydroxyethyladenosine. Đáng chú ý hơn cả là nhóm hoạt chất HEAA ( Hydroxy-EthylAdenosine- Analogs).
Đông trùng hạ thảo còn chứa nhiều loại vitamin (trong 100g đông trùng hạ
thảo có 0,12 g vitamin B12; 19 mg vitamin A; 116,03 mg vitamin C, ngoài ra
còn có vitamin B2 (riboflavin), vitamin E, vitamin K…), ngoài ra còn có khoảng
25 – 30 % protein, 8% chất béo và đường mannitol.
Theo Holiday và Cleaver (2004), đông trùng hạ thảo đã được sử dụng như
một loại “thần dược” từ những năm 620 sau CN, vào thời nhà Đường ở Trung
Quốc (618-907).

Năm 1994, Trung Quốc đã chính thức xếp loại đông trùng hạ thảo như một
dược phẩm. Sau đó, đông trùng hạ thảo được sử dụng rất nhiều khi dịch SARS
xuất hiện ở Trung Quốc vào năm 2003.
Gần đây, đông trùng hạ thảo được chứng minh có tác dụng trong điều trị
các bệnh về tim mạch, hô hấp, gan, thận, ức chế sự hình thành khối u, …(Chen et
al., 2006; Kuo, Sua, Yang, Huang, & Chen, 2006; Wang & Shiao, 2000).
Giá sản phẩm:
Năm 2004: 10.000 USD/kg tại Trung Quốc
Năm 2008: 75.000 USD/kg tại Mỹ price (Holiday và Cleaver, 2008

Các hợp chất hoạt tính sinh học được phân lập từ Cordyceps sp S. no Bioactive compounds References
1 Cordycepin Cunningham et al. (1950)
2 Cordycepic acid Chatterjee et al. (1957)-7-
3 N-acetylgalactosamine Kawaguchi et al. (1986)
4 Adenosine Guo et al. (1998)
5 Ergosterol and ergosteryl esters Yuan et al. (2007)
6 Bioxanthracenes Isaka et al. (2001)
7 Hypoxanthine Huang et al. (2003)
8 Acid deoxyribonuclease Ye et al. (2004)
9 Polysaccharide and exopolysaccharide Yu et al. (2007, 2009), Xiao et al. (2010), Yan et al. (2010)
10 Chitinase Lee and Min (2003)
11 Macrolides (C10H14O4) Rukachaisirikul et al. (2004)
12 Cicadapeptins and myriocin Krasnoff et al. (2005)
13 Superoxide dismutase Wanga et al. (2005)
14 Protease Hattori et al. (2005)
15 Naphthaquinone Unagul et al. (2005)
16 Cordyheptapeptide Rukachaisirikul et al. (2006)
17 Dipicolinic acid Watanabe et al. (2006)
18 Fibrynolytical enzyme Kim et al. (2006)
19 Lectin Jung et al. (2007)
20 Cordymin Wonga et al. (2011)

(Sưu tầm từ các nghiên cứu chuyên ngành y dược)